Các ngành hàng đều gặp khó về thị trường xuất khẩu
Theo Bộ Công Thương, trong 5 tháng đầu năm 2023, hoạt động xuất khẩu tiếp tục chịu ảnh hưởng từ những khó khăn trong sản xuất và sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu, thêm vào đó là giá hàng hoá xuất khẩu giảm.
Mặc dù, tháng 5 hoạt động xuất khẩu hàng hóa có dấu hiệu phục hồi tích cực với kim ngạch xuất khẩu ước đạt 29,05 tỷ USD, tăng 4,3% so với tháng trước. Tuy nhiên, tính chung 5 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 136,17 tỷ USD, giảm 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 35,19 tỷ USD, giảm 13,2%, chiếm 25,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 100,98 tỷ USD, giảm 11,1%, chiếm 74,2%.
Theo Bộ Công Thương, bên cạnh sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu, giá hàng hoá xuất khẩu giảm cũng là một trong những yếu tố làm giảm kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong 5 tháng đầu năm nay.
Trong đó, giá xuất khẩu bình quân nhiều mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước, như: Chè giảm 7,9%, hạt điều giảm 1,5%, hạt tiêu giảm 34,3%, cao su giảm 21,1%, phân bón giảm 35,2%, chất dẻo nguyên liệu giảm 24,4%… Chỉ có một số ít mặt hàng có giá xuất khẩu tăng như: gạo tăng 7,9%, cà phê tăng tăng 3,5%, than đá tăng 38,5%...
Đáng chú ý, các ngành hàng đều gặp khó khăn về thị trường xuất khẩu do tổng cầu trên thế giới giảm, nhất là là đối với hàng hoá tiêu dùng không thiết yếu. Do vậy kim ngạch xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2023 sang hầu hết các thị trường chủ lực đều giảm với các mức độ tác động khác nhau.
Trong đó, những ngành hàng như dệt may, da giày, gỗ, thuỷ sản với thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU... có mức sụt giảm nhiều nhất; trong khi các ngành hàng như cao su, gạo, rau quả, hạt điều... với thị trường xuất khẩu chính là châu Á ít chịu tác động hơn.
Bên cạnh đó, một số ngành hàng xuất khẩu như thuỷ sản, gỗ và sản phẩm gỗ, sắt thép, sản phẩm nhựa đang đối mặt với các áp lực về điều tra phòng vệ thương mại. “Vấn đề chi phí nguyên liệu vật tư đầu vào tăng cũng ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu... cũng tạo ra những khó khăn về thị trường xuất khẩu”, Bộ Công Thương đánh giá.
Trong các thị trường xuất khẩu chủ lực, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2023 khi chiếm 26% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Theo Bộ Công Thương, việc FED duy trì tăng lãi suất trong thời gian dài đã đạt được những kết quả nhất định trong ứng phó với lạm phát tăng cao. Tuy nhiên, chi tiêu tiêu dùng có dấu hiệu giảm tốc và được dự báo có thể tiếp tục suy yếu hơn trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp phá sản, cắt giảm lao động và cảnh báo về suy thoái kinh tế gần đây; tỷ lệ tiết kiệm đã tăng cao hơn, dấu hiệu cho thấy người dân có thể đang ngày càng thận trọng hơn trong tiêu dùng... đã ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. Do vậy, nhu cầu nhập khẩu của thị trường này đối với hàng hóa của Việt Nam tiếp tục giảm mạnh so với cùng kỳ, ước đạt 37 tỷ USD, giảm 19,5% (trong 4 tháng đầu năm giảm 21% so với cùng kỳ).
Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, mặc dù thị trường này đã mở cửa biên giới từ ngày 8/1/2023 song kinh tế chưa phục hồi nhanh, đối diện với nhiều khó khăn khi xuất khẩu giảm tốc do nhu cầu toàn cầu suy giảm. Tình trạng thất nghiệp đã tác động trực tiếp tới nhu cầu tiêu dùng hàng hóa của người dân Trung Quốc, cùng với yêu cầu ngày càng cao về tiêu chuẩn hàng hoá... là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khó khăn đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này.
Do đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2023 ước đạt 19,8 tỷ USD, giảm 9,3% so với cùng kỳ (trong 4 tháng đầu năm giảm 7,9% so với cùng kỳ).
Đối với thị trường EU, sự suy giảm xuất khẩu sang thị trường này được đánh giá có dấu hiệu chững lại. Do vậy, xuất khẩu sang thị trường EU 5 tháng ước đạt 18,4 tỷ USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ (4 tháng đầu năm giảm 14,1%).
Nguồn: Hải Quan Online