Lưu ý về phân loại gạo khi xuất khẩu sang thị trường Bắc Âu

Trong thống kê thương mại nói chung và các nước Bắc Âu nói riêng, các loại gạo khác nhau không được phân biệt. Mã số thương mại chủ yếu dựa trên các sản phẩm gạo chế biến khác nhau: chưa qua chế biến (thóc), gạo lứt (đã tách vỏ trấu), gạo trắng (đã xay xát) và gạo tấm.

Với gạo lứt và gạo màu thường còn nguyên lớp cám. Gạo trắng được xay xát, nghĩa là loại bỏ trấu, cám và mầm. Sau khi xay xát, gạo có thể được đánh bóng, tạo ra hạt có bề ngoài sáng, trắng, và bóng. Gạo cũng có thể được đồ. Gạo này được luộc một phần trong vỏ trấu, do đó giữ được hầu hết các chất dinh dưỡng. Gạo đen hoặc tím chủ yếu là gạo nếp, trong khi hầu hết gạo đỏ thuộc loại gạo Indica.

Hiểu cách phân loại gạo và các sản phẩm liên quan, sẽ giúp xác định mức thuế quan áp dụng và các biện pháp phi thuế quan áp dụng cho sản phẩm của doanh nghiệp.

Phân loại gạo dưới đây áp dụng cho gạo xát, gạo xay và gạo đồ dùng trực tiếp cho người, được trình bày ở dạng đóng gói hoặc không đóng gói, bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Nó cũng áp dụng cho các sản phẩm khác có nguồn gốc từ gạo.

HS 1006: Mã 1006 được chia thành bốn mã nhỏ:

1006 10 – Lúa (thóc): Gạo còn lại vỏ sau khi tuốt được gọi là thóc. Điều này có nghĩa là hạt gạo vẫn được bao bọc chặt chẽ bởi lớp vỏ trấu;

1006 20 – Gạo đã xát vỏ (gạo lứt): Gạo này chỉ được xát để loại bỏ vỏ trấu. Gạo lứt là loại gạo không được đánh bóng, được xay xát để loại bỏ lớp vỏ bên ngoài hạt gạo nhưng vẫn giữ lại lớp cám gạo và mầm gạo, mang lại hương vị thơm và dai. Gạo lứt hạt dài thường ít bông và mềm hơn, còn hạt ngắn thì ít dính hơn. Gạo lứt nấu chín cũng mất thời gian gấp đôi và thời hạn sử dụng ngắn hơn nhiều (vì có dầu trong mầm);

1006 30 – Gạo chưa xay xát kỹ, xay xát toàn bộ, hoặc đã đánh bóng và tráng men hoặc không: Gạo cũng có thể được xay để loại bỏ lớp màng (lớp ngoài cùng của gạo vẫn có trong gạo lứt). Loại gạo này đã được xay chưa kỹ hoặc xay xát toàn bộ (còn được gọi là gạo tẩy trắng). Gạo xay xát kỹ bao gồm gạo nguyên hạt mà lớp màng ngoài đã được loại bỏ hoàn toàn. Gạo xay xát kỹ cũng có thể được đánh bóng và sau đó tráng men để cải thiện hình thức. Quá trình đánh bóng thường được thực hiện trong máy chải hoặc 'nón đánh bóng'. Tráng men bao gồm việc phủ các hạt gạo bằng hỗn hợp glucose và talcum trong các thùng tráng men đặc biệt. Nhóm này cũng bao gồm gạo 'Camolino', bao gồm gạo xay xát và được phủ một lớp dầu. Gạo đồ cũng nằm trong nhóm HS này. Gạo đồ có nghĩa là các hạt gạo, khi vẫn còn trong vỏ trấu và trước khi thực hiện bất kỳ quá trình nào khác (ví dụ như xay xát, v.v.), đã được ngâm trong nước nóng hoặc hấp và sau đó sấy khô. Cấu trúc hạt của gạo đồ chỉ bị thay đổi ở một mức độ nhỏ trong quá trình mà nó đã trải qua và không được xếp vào loại gạo nấu chín. Gạo như vậy, sau khi xay xát, đánh bóng… mất từ 20 đến 35 phút để nấu chín hoàn toàn. Gạo đồ thường có bề ngoài phồng;

1006 40 – Gạo tấm: Gạo tấm là loại gạo trắng bị hỏng, bị vỡ vụn trong quá trình chế biến. Trong quá trình xay xát, các mảnh hạt có chiều dài không vượt quá 3/4 chiều dài trung bình của cả hạt được tách ra khỏi gạo trắng mà hình dạng vẫn còn nguyên vẹn. Đây được xếp vào loại gạo tấm. Một hạt gạo tấm có kết cấu ít chất xơ và mức dinh dưỡng thấp, trong khi vẫn giữ được năng lượng cao. Gạo tấm chứa nhiều mảnh hạt hơn. Loại gạo này có chất lượng thấp hơn và thường được sử dụng cho sữa bột trẻ em, ngũ cốc từ gạo, thức ăn cho vật nuôi, rượu gạo và bột gạo, cũng như cho thực phẩm đóng gói hoặc đóng hộp.

 Mã HS ngoài 1006: HS1006 chỉ bao gồm gạo chưa nấu chín và chưa chế biến. Điều này có nghĩa là các sản phẩm từ quá trình xay xát gạo bị loại trừ và được phân loại trong chương 11.

Nhóm 1006 cũng loại trừ gạo đã được đưa vào xử lý, làm thay đổi đáng kể cấu trúc hạt. Gạo nấu trước bao gồm các loại ngũ cốc đã được nấu chín hoàn toàn hoặc một phần và sau đó rút hết nước được xếp vào nhóm 1904. Gạo nấu trước một phần mất 5 đến 12 phút để chuẩn bị, trong khi gạo nấu chín hoàn toàn chỉ cần ngâm trong nước và đun sôi trước khi dùng. Bỏng gạo thu được từ quá trình trương nở và sẵn sàng để tiêu thụ cũng được xếp vào nhóm 1904.

 Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, kiêm nhiệm Đan Mạch,
 Na Uy, Iceland, và Latvia


Tin tức liên quan

Xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 48,3 tỷ USD
Xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 48,3 tỷ USD

Từ đầu năm đến 15/11, xuất khẩu nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 48,3 tỷ USD, tăng gần 12,6%.

Đòn bẩy phát triển vận tải thuỷ Việt Nam với Lào, Campuchia
Đòn bẩy phát triển vận tải thuỷ Việt Nam với Lào, Campuchia

Hợp tác toàn diện, phát triển vận tải với Lào

Cục Đường thủy nội địa Việt Nam (VN) cho biết, trong chương trình chuyến thăm chính thức nước CHDCND Lào của Thủ tướng Phạm Minh Chính, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone đã chứng kiến lễ ký kết 10 văn kiện hợp tác, trong đó có bản Thỏa thuận hợp tác toàn diện trong lĩnh vực GTVT đường thủy giữa Bộ GTVT Việt Nam và Bộ Công chính và Vận tải Lào.

Xuất khẩu cao su quý III/2022 đạt hơn 930 triệu USD
Xuất khẩu cao su quý III/2022 đạt hơn 930 triệu USD

Trong quý III/2022, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 609,17 nghìn tấn, trị giá 930,86 triệu USD, tăng 6% về lượng, nhưng giảm 1,8% về trị giá so với cùng kỳ.


Đã thêm vào giỏ hàng