Maersk và Hapag-Lloyd thông báo trước cho các chủ hàng về phụ phí ETS của Châu Âu

Hai công ty vận tải biển lớn hàng đầu đã thông báo chi tiết về các khoản phụ phí dự kiến mà các chủ hàng sẽ phải đối mặt trong năm tới khi ngành vận tải biển điều chỉnh để phù hợp với hệ thống giao dịch khí thải của Liên minh Châu Âu (EU ETS).  Maersk cảnh báo rằng những chi phí này sẽ rất lớn.

Bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2024, các nhà khai thác tàu sẽ được ủy quyền giám sát và báo cáo lượng khí thải của họ trong các chuyến đi trong Khu vực Kinh tế Châu Âu và 50% các chuyến đi bắt đầu hoặc kết thúc tại các cảng Châu Âu.

Trong một  báo cáo tư vấn khách hàng gần đây, Maersk cho rằng chi phí tuân thủ dự kiến sẽ rất lớn và sẽ tiếp tục tăng khi triển khai theo từng giai đoạn.  Chi phí này sẽ được chuyển cho khách hàng dưới dạng một khoản phụ phí riêng được gọi là 'Phụ phí phát thải', và sẽ được áp dụng cho tất cả các chuyến tàu trong phạm vi áp dụng EU-ETS.

Hapag-Lloyd cũng thông báo với khách hàng của mình rằng ETS sẽ dẫn đến chi phí bổ sung sẽ được áp dụng như một khoản phụ phí riêng và các khách hàng cần có sự chuẩn bị sẵn sàng về mặt chi phí trong năm tới.

Để bù đắp những chi phí này, Maersk ước tính rằng trên tuyến Á-Bắc Âu, hãng sẽ cần áp dụng mức phí 73 USD/FEU, trong khi Hapag-Lloyd ước tính mức phí là 12 USD/TEU.

Phụ phí sẽ được áp dụng theo quý đối với chủ hàng bắt đầu từ quý 1 của năm tới. Các công ty vận tải phải trang trải chi phí cho phép phát thải, đối với 40% lượng phát thải khí nhà kính (GHG) vào năm 2024, tăng lên 70% vào năm 2025 và đạt mức đầy đủ (100%) từ năm 2026.

Vào năm 2024, các công ty vận tải phải “mua” một Tín chỉ phát thải của EU (European Union Allowance-EUA) cho mỗi tấn phát thải CO2 được báo cáo và nộp cho EU hàng năm.

EUA có thể được mua thông qua các sàn giao dịch như Sàn giao dịch liên lục địa, Sàn giao dịch năng lượng châu Âu, sàn Nasdaq và các thị trường không cần kê đơn liên quan đến các nhà mạng và khách hàng.

EU-ETS được thiết kế theo mô hình “cap and trade” với tổng mức phát thải được giới hạn theo từng thời kỳ, với sự tham gia của tất cả các quốc gia thành viên và sẽ giảm dần qua từng năm. Điều này sẽ cho phép các doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động của mình nhằm đáp ứng mục tiêu đã được đề ra. EU cũng đã thiết lập Quy trình giám sát, báo cáo và xác minh hàng năm (MRV), các quy trình liên quan khác còn gọi là Chu trình tuân thủ ETS nhằm đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả.

Các chủ thể phát thải thuộc phạm vi điều chỉnh của thị trường phải có kế hoạch giám sát lượng phát thải được phê duyệt, theo Quy định Giám sát và Báo cáo (MRR) cũng như Quy định về Công nhận và Xác minh (AVR). Cụ thể, các chủ thể phát thải sẽ phải nộp báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền là Ủy ban châu Âu, báo cáo phải được thẩm định bởi thẩm định viên trước khi nộp. Chính phủ mỗi quốc gia dựa trên các báo cáo đó để phân bổ một lượng tín chỉ phát thải miễn phí cho doanh nghiệp (tỉ lệ tín chỉ phát thải miễn phí trên tổng lượng phát thải của doanh nghiệp được Chính phủ ấn định tùy theo từng giai đoạn), phần còn lại sẽ trở thành các tín chỉ được đưa vào giao dịch trên thị trường. Sau mỗi năm, doanh nghiệp sẽ phải nộp đủ số tín chỉ tương ứng với lượng phát thải. Nếu một doanh nghiệp thực hiện tốt việc giảm phát thải và không sử dụng hết lượng tín chỉ thì có thể giữ lại chúng để đáp ứng nhu cầu trong tương lai, hoặc bán cho các doanh nghiệp khác. Trong khi đó, các doanh nghiệp phát thải nhiều hơn mức được phân bổ miễn phí sẽ phải mua lại các tín chỉ phát thải trên thị trường hoặc thông qua đấu giá được tổ chức bởi Chính phủ.


Nguồn: VITIC (trích từ Báo cáo thị trường logistics châu Âu).


Tin tức liên quan

Cập nhật tình hình hàng hóa qua các cảng biển của Trung Quốc 4 tháng đầu năm 2023
Cập nhật tình hình hàng hóa qua các cảng biển của Trung Quốc 4 tháng đầu năm 2023

Theo dữ liệu từ Bộ Giao thông Vận tải Trung Quốc, tổng sản lượng container thông qua tại các cảng lớn của Trung Quốc đạt 95,43 triệu TEU trong 4 tháng đầu của năm 2023, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2022.

Giá nhiên liệu tăng tạo áp lực lớn lên chi phí logistics và chi tiêu dùng tại Nhật Bản
Giá nhiên liệu tăng tạo áp lực lớn lên chi phí logistics và chi tiêu dùng tại Nhật Bản

Giá dầu thô tăng đã đẩy chi phí vận chuyển và các chi phí logistics khác đồng loạt tăng (ví dụ như chi phí đóng gói, lưu kho, bảo quản hàng hóa) tại Nhật Bản, trong khi đồng yên yếu hơn đang làm tăng giá hàng hóa nhập khẩu nói chung. Do đó, chỉ số giá tiêu dùng của nước này (không bao gồm thực phẩm tươi sống có biến động giá lớn) từ tháng 4/2022 đã tăng lên ngưỡng cao nhất trong 7 năm trở lại đây.

Một số lưu ý cho doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Italia
Một số lưu ý cho doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Italia

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) đi vào thực thi đã giúp hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam được hưởng nhiều ưu đãi cũng như khả năng cạnh tranh và chen chân vào chuỗi cung ứng của Liên minh châu Âu; trong đó, có Italia.


Đã thêm vào giỏ hàng