Tác động của thỏa thuận xanh châu Âu đến việc nhập khẩu hàng hóa vào EU

Thỏa thuận xanh châu Âu (EGD) có thể ảnh hưởng đến hàng nhập khẩu vào EU theo nhiều cách. Ngoài việc thiết lập các tiêu chuẩn bền vững cao hơn trong các quy trình sản xuất và công nghiệp chính, EGD sẽ yêu cầu các doanh nghiệp vừa và nhỏ cung cấp thêm thông tin về các sản phẩm mà họ xuất khẩu sang châu Âu. Điều này có nghĩa là tăng chi phí trong ngắn hạn và tăng khả năng cạnh tranh trong một thị trường toàn cầu bền vững trong dài hạn.

Thỏa thuận xanh châu Âu sẽ thay đổi các tiêu chuẩn hiện có để giúp các doanh nghiệp và chuỗi cung ứng bền vững hơn. Điều này sẽ tác động đến nhập khẩu vào châu Âu theo những cách sau:

Các tiêu chuẩn cao hơn về tính bền vững xã hội và môi trường trong sản xuất và chế biến hàng hóa và dịch vụ

Ngay cả khi luật pháp và các quy định không thay đổi hoặc không đi vào thực tiễn trong nhiều năm, thị trường đang chuyển hướng sang các sản phẩm đã được chứng minh là được sản xuất theo cách bền vững, tôn trọng quyền con người. Nói cách khác, người mua, đặc biệt là các công ty lớn hơn, đang tìm kiếm hàng hóa được sản xuất, chế biến và đóng gói theo tiêu chuẩn cao về tôn trọng nhân quyền và môi trường. Các nhà bán lẻ lớn trên toàn cầu đã đồng ý về một thỏa thuận 2 năm với các công nhân may mặc và chủ nhà máy ở Bangladesh, mở rộng một thỏa thuận đã có từ trước khiến các nhà bán lẻ phải chịu trách nhiệm pháp lý trừ khi các nhà máy của họ đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn lao động.

Về cơ bản, tất cả các thương hiệu thực phẩm và đồ uống lớn đã cam kết tìm nguồn cung ứng nông sản một cách có trách nhiệm, và ngành thủy sản cũng đang làm theo. Trong lĩnh vực may mặc và dệt may, các công ty cũng đang truyền đạt ý định tạo ra một lĩnh vực tôn trọng quyền con người và cung cấp nguyên liệu bền vững. Ví dụ, nhà bán lẻ đường phố Zara đã thông báo 2 năm trước rằng họ sẽ chỉ sử dụng các loại vải bền vững vào năm 2025.

Tất cả những điều này có nghĩa là nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bền vững ngày càng tăng. Các luật và biện pháp được đề xuất theo Thỏa thuận xanh châu Âu sẽ chỉ làm cho nhu cầu này mạnh mẽ hơn. Điều này mang đến cơ hội lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang sản xuất thực phẩm và dệt may tuân thủ các tiêu chuẩn bền vững cao, như hữu cơ.

Tăng nhu cầu về thông tin về thực hành sản xuất và chế biến

Nhiều luật khác nhau đang được thảo luận để nâng cao trách nhiệm của các nhà sản xuất và nhà bán lẻ châu Âu trong việc giải thích hàng hóa được sản xuất ở đâu và như thế nào cũng như tác động của chúng đối với con người và môi trường. Chúng bao gồm các luật mới về nhân quyền và môi trường, cũng như các quy định về báo cáo phi tài chính.

Ngoài ra, các sáng kiến bền vững tự nguyện từ các chương trình chứng nhận và các sáng kiến riêng của công ty cũng đã làm tăng tính sẵn có của hàng hóa được bán trên thị trường là bền vững. Ngày nay, trong một số lĩnh vực, hàng hóa được chứng nhận bền vững chiếm một phần đáng kể trên thị trường. Cà phê đã được chứng nhận bền vững lâu nhất, hơn 30 năm. Các mặt hàng được chứng nhận khác đã chứng kiến thị phần tăng lên trong 10 năm qua. Trong một số trường hợp, sự tăng trưởng này thậm chí còn bắt đầu sớm hơn. Sản xuất hải sản, từ đánh bắt tự nhiên và nuôi trồng, ngày càng được kỳ vọng sẽ tuân thủ các tiêu chuẩn bền vững cơ bản.

Nhìn chung, điều này có nghĩa là các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu sang châu Âu chắc chắn sẽ cần phải điều chỉnh để cung cấp ngày càng nhiều thông tin về cách thức sản xuất hàng hóa và có khả năng sẽ bị kiểm tra về thông tin này. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều này có thể có nghĩa là thiết lập các hệ thống để thu thập thông tin từ các nhà cung cấp về hoạt động sản xuất và lao động cũng như giải thích nguồn gốc hàng hóa (còn gọi là truy xuất nguồn gốc). Ngoài ra, còn cần tuân thủ tiêu chuẩn bền vững tự nguyện, cho dù là chương trình chứng nhận hay sáng kiến riêng của công ty.

Các tiêu chuẩn cao hơn về tính bền vững xã hội và môi trường trong sản xuất và chế biến hàng hóa và dịch vụ

Ngay cả khi luật pháp và các quy định không thay đổi hoặc không đi vào thực tiễn trong nhiều năm, thị trường đang chuyển hướng sang các sản phẩm đã được chứng minh là được sản xuất theo cách bền vững, tôn trọng quyền con người. Nói cách khác, người mua, đặc biệt là các công ty lớn đang tìm kiếm hàng hóa được sản xuất, chế biến và đóng gói theo tiêu chuẩn cao về tôn trọng nhân quyền và môi trường. Gần đây, các nhà bán lẻ lớn trên toàn cầu đã đồng ý về một thỏa thuận hai năm với các công nhân may mặc và chủ nhà máy ở Bangladesh, mở rộng thỏa thuận đã có từ trước khiến các nhà bán lẻ phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu nhà máy của họ không đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn lao động.

Về cơ bản, tất cả các thương hiệu thực phẩm và đồ uống lớn đã cam kết tìm nguồn cung ứng nông sản một cách có trách nhiệm, và ngành thủy sản cũng đang làm theo. Trong lĩnh vực may mặc và dệt may, các công ty cũng đang truyền thông về một kế hoạch sản xuất và cung cấp nguyên liệu bền vững và tôn trọng quyền con người. Ví dụ, nhà bán lẻ Zara đã thông báo hai năm trước rằng, kể từ năm 2025, họ sẽ chỉ sử dụng các loại vải bền vững.

Tất cả những điều này có nghĩa là nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bền vững ngày càng tăng. Các luật và biện pháp được đề xuất theo Thỏa thuận xanh châu Âu sẽ chỉ làm cho nhu cầu này mạnh mẽ hơn. Điều này mang đến cơ hội lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang sản xuất thực phẩm và dệt may tuân thủ các tiêu chuẩn bền vững cao, như sản xuất hữu cơ.

Tăng nhu cầu về thông tin về thực hành sản xuất và chế biến

Nhiều luật khác nhau đang được thảo luận để nâng cao trách nhiệm của các nhà sản xuất và nhà bán lẻ châu Âu trong việc giải thích hàng hóa được sản xuất ở đâu và như thế nào cũng như tác động của chúng đối với con người và môi trường. Chúng bao gồm các luật mới về nhân quyền và môi trường, cũng như các quy định về báo cáo phi tài chính.

Ngoài ra, các sáng kiến bền vững tự nguyện từ các chương trình chứng nhận và các sáng kiến riêng của công ty cũng làm gia tăng số sản phẩm bền vững được bán trên thị trường. Ngày nay, trong một số lĩnh vực, hàng hóa được chứng nhận bền vững chiếm một phần đáng kể trên thị trường. Cà phê đã được chứng nhận bền vững lâu nhất, hơn 30 năm. Thị phần của các mặt hàng được chứng nhận khác đã tăng lên trong 10 năm qua. Trong một số trường hợp, sự tăng trưởng này thậm chí còn bắt đầu sớm hơn. Sản xuất hải sản, từ đánh bắt tự nhiên và nuôi trồng, ngày càng được kỳ vọng sẽ tuân thủ các tiêu chuẩn bền vững cơ bản.

Nhìn chung, điều này có nghĩa là các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu sang châu Âu chắc chắn sẽ cần phải điều chỉnh để cung cấp ngày càng nhiều thông tin về cách thức sản xuất hàng hóa và có khả năng sẽ bị kiểm toán về thông tin này. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều này có thể có nghĩa là thiết lập các hệ thống để thu thập thông tin từ các nhà cung cấp về hoạt động sản xuất và lao động cũng như giải thích nguồn gốc hàng hóa (còn gọi là truy xuất nguồn gốc). Điều này cũng có nghĩa là tuân thủ tiêu chuẩn bền vững tự nguyện, cho dù là chương trình chứng nhận hay sáng kiến riêng của công ty.

Tăng chi phí chuyển đổi sang các mô hình sản xuất bền vững mới

Trong ngắn hạn, chắc chắn sẽ có những chi phí liên quan đến quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế tuần hoàn và bền vững hơn. Một số ví dụ về các chi phí này là sử dụng vật liệu tái chế, điều chỉnh quá trình sản xuất và chế biến theo tiêu chuẩn bền vững cao hơn, xác định khả năng truy xuất nguồn gốc của sản phẩm và đảm bảo kiểm toán đầy đủ các quy trình này. Câu hỏi ai sẽ chịu trách nhiệm cho những chi phí này vẫn đang được tranh luận rất nhiều.

Nhìn chung, còn quá sớm để biết Thỏa thuận xanh sẽ được thông qua và thực hiện như thế nào và chính xác điều này sẽ có ý nghĩa gì đối với khoản đầu tư mà các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng hóa sang EU dự kiến sẽ thực hiện cũng như tác động đối với chi phí hàng hóa. Những gì được biết là EU đã hứa về một quá trình chuyển đổi công bằng, có nghĩa là họ sẽ tính đến các tác động đối với các doanh nghiệp nhỏ và sẽ có thời gian để điều chỉnh các chi phí của quá trình chuyển đổi. Điều này cũng có thể có nghĩa là EU sẽ tạo ra các chương trình hỗ trợ thông qua chuỗi cung ứng hoặc trong các thỏa thuận tài trợ song phương/hợp tác với các quốc gia. Đáng chú ý là ở Châu Phi đã có một số chương trình hợp tác xanh.

Chuẩn bị cho các nhà xuất khẩu hàng hóa hướng tới một thị trường toàn cầu bền vững

Châu Âu không phải là thị trường quan trọng duy nhất xem xét các biện pháp pháp lý để tăng tính bền vững của các sản phẩm được giao dịch. Vương quốc Anh đã thông qua Đạo luật nô lệ hiện đại yêu cầu các công ty báo cáo về nguy cơ lao động cưỡng bức trong chuỗi cung ứng và Hoa Kỳ có lệnh cấm nhập khẩu hàng hóa lao động cưỡng bức. Các hiệp ước quốc tế về biến đổi khí hậu có nghĩa là tất cả các quốc gia phải vạch ra kế hoạch để đạt được lượng khí thải thấp hơn trong 30 năm tới, điều này sẽ tác động đến chuỗi cung ứng ở khắp mọi nơi. Về lý thuyết, về lâu dài, không có thị trường nào miễn nhiễm với nhu cầu sản xuất vật liệu, hàng hóa và dịch vụ bền vững.

Ủy ban châu Âu công nhận rõ ràng rằng họ không thể đạt được các mục tiêu của Thỏa thuận xanh của EU chỉ trong phạm vi ranh giới của EU. Họ đã tuyên bố rằng “[…] các mục tiêu về tuần hoàn khó có thể đạt được nếu không đảm bảo rằng các nhà cung cấp ở các nước đang phát triển cũng áp dụng các thông lệ kinh doanh tuần hoàn.” EU không chỉ cần và muốn hàng hóa và dịch vụ từ bên ngoài biên giới của mình, mà còn biết rằng tác động của biến đổi khí hậu, bất bình đẳng và suy thoái môi trường là toàn cầu. Vì điều này, EU đã đưa ra tuyên bố về việc đảm bảo quá trình chuyển đổi công bằng có tác động tích cực đến các doanh nghiệp nhỏ và hoạt động sản xuất hàng hóa bền vững bên ngoài châu Âu. Điều này có nghĩa là sẽ cần hỗ trợ quá trình chuyển đổi này dưới dạng này hay dạng khác.

Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển


Tin tức liên quan

Giải pháp đưa nông sản vào Bắc Âu
Giải pháp đưa nông sản vào Bắc Âu

Theo Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, kiêm nhiệm Đan Mạch, Na Uy, Iceland, và Latvia, Bắc Âu gồm 5 nước: Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan, Iceland. Đây là các nước nhỏ, nhưng có nền kinh tế mở, hiện đại. Mặc dù, Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang khu vực này nếu so với các nước ASEAN nhưng thị phần vẫn quá nhỏ, chưa đến 1%.

Chi tiết 802 mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Iceland trong năm 2022 và thị phần
Chi tiết 802 mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Iceland trong năm 2022 và thị phần

Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp nghiên cứu tiềm năng xuất khẩu hàng hoá sang Iceland, Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển (kiêm nhiệm Đan Mạch, Na Uy, Iceland, và Latvia) tổng hợp 802 mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Iceland trong năm 2022 theo mã HS 6 số, so sánh với tổng nhập khẩu các mặt hàng tương tự để tính thị phần từng mặt hàng này tại Iceland.

Xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 258 tỷ USD
Xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 258 tỷ USD

Theo số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan, hết tháng 7, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt hơn 258 tỷ USD, giảm 13,8% (tương ứng giảm 41,44 tỷ USD) so với cùng kỳ 2022.


Đã thêm vào giỏ hàng